Sự nghiệp Gia_Cát_Lượng

Vào khoảng năm 200, hai thế lực lớn là Tào TháoViên Thiệu giao chiến ở trận Quan Độ, ban đầu Lưu Bị phục vụ cho Viên Thiệu, nhưng sau lại ngầm tìm cách bỏ đi về phía Nam. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu, xua quân truy kích Lưu Bị, lực lượng mà Tào Tháo tỏ ra lo ngại. Lưu Bị chạy đến nương nhờ Lưu Biểu, người đang cai quản Kinh Châu, Lưu Biểu tiếp đãi trọng hậu, cho thêm quân, sai đóng quân ở huyện Tân Dã, hào kiệt Kinh châu theo về rất đông.

Phò tá Lưu Bị

Được tiến cử

Khi Lưu BịTân Dã, có đến nhà Tư Mã Huy bàn việc thiên hạ. Huy đáp: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt hai người, đó là Ngọa Long và Phượng Sồ. Ngọa Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sĩ Nguyên. Có được một trong 2 người đó thì có thể định được thiên hạ". Lưu Bị nói rằng hãy đưa người đó đến gặp, Tư Mã Huy khuyên Lưu Bị nên tới nhà Gia Cát Lượng để gặp.[9] Một nhân vật khác nhận được sự kính trọng từ Lưu Bị là Từ Thứ đã tiến cử Gia Cát Lượng cho Lưu Bị, gọi Gia Cát Lượng là con rồng nằm. Lưu Bị đã 3 lần đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp. Gia Cát Lượng đã trình bày Long Trung đối sách, được Lưu Bị khen hay. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.[9]

Sách "Ngụy Lược" thì viết rằng Gia Cát Lượng tự đến làm khách ở chỗ Lưu Bị, nhưng chỉ được xem như một thư sinh tầm thường. Một hôm, Lượng cố ý ở lại cuối cùng sau khi gia khách đã về hết, nhưng vẫn không được Bị để ý gì đến. Sau khi Lượng chủ động thưa chuyện với Lưu Bị thì Bị mới nhận ra tài năng, và trọng dụng Lượng.[9] Các sử gia xem xét sự trái ngược của hai cách nói trong 2 bộ sử và kết luận rằng: cả hai sự kiện đều có thể là đúng, với trình tự là Gia Cát sớm tự tiến cử trước, nhưng chưa thực sự được Lưu Bị coi trọng nên ông trở về. Sau đó Lưu Bị nhận ra tài năng thực thụ của Khổng Minh, hạ mình 3 lần tới lều tranh tìm gặp.[10]

Lưu Bị từ đó càng đối đãi thân tình với Gia Cát Lượng, điều đó khiến Quan Vũ, Trương Phi không hài lòng. Lưu Bị mới giải thích: Ta được gặp Khổng Minh như cá với nước vậy, các em chớ nên nhiều lời. Quan Vũ, Trương Phi đành phải chịu.[9]

Người đời sau có thơ khen việc Lưu Bị 3 lần hạ mình tới cầu kiến người hiền tài để dựng nên cơ nghiệp 50 năm của nhà Thục Hán:

Giặc Hán rành chia bận cõi lòng
Đường đường Hoàng thúc tới lều tranh
Ai hay một chốc lời tâm sự
Được giang sơn chẵn năm chục tròn

Chạy khỏi Tân Dã

Tháng 8 năm 208, quân Tào áp sát Kinh châu. Lưu Biểu ốm chết, trước lúc chết phó thác việc nước cho Lưu Bị, Bị từ chối. Con út Lưu Biểu là Lưu Tông được lập lên kế vị, quyết định đầu hàng Tào Tháo. Lúc ấy Lưu Bị đóng quân ở Phàn Thành, lúc nghe quân Tào đến Uyển Thành, bèn dẫn quân rời đi. Qua Tương Dương, Gia Cát Lượng khuyên Lưu Bị đánh Lưu Tông để thu Kinh Châu, nhưng Lưu Bị đã khước từ lời đề nghị ấy, nói rằng: Ta chẳng nhẫn tâm làm vậy.[11]

Lúc quân Lưu Bị rời đi, nhiều thuộc hạ của Lưu Biểu đi theo Lưu Bị, khi đến Tương Dương, dân. chúng kéo theo hơn chục vạn người Biết mình quân ít không thể chống nổi đại quân Tào, Lưu Bị chia làm 2 đường: Quan Vũ dẫn thủy quân chạy về Giang Hạ để hợp binh với Lưu Kỳ, Bị đi cùng Gia Cát Lượng, Từ Thứ, Triệu Vân, Trương Phi dẫn theo cả gia quyến theo đường bộ chạy đến Giang Lăng.

Dân lánh nạn đi theo có đến hơn mười vạn người, xe chở hành lý lớn nhỏ chen cả lối đi, mỗi ngày hành quân không được 10 dặm đường. Tào Tháo sai Tào Thuần dẫn quân khinh kỵ đuổi gấp, bắt kịp Lưu Bị ở Đương Dương - Trường Bản. Lưu Bị bỏ lại vợ con cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi và Triệu Vân phải chạy cùng vài chục quân kỵ. Hai con gái của Lưu Bị và mẹ già của Từ Thứ bị quân Tào bắt.[12]

Lưu Bị chạy rẽ sang Hán Tân, vừa hay gặp được thuyền của Quan Vũ, qua sông Miện, hội với con trưởng của Lưu Biểu là Kì rồi cùng đến Hạ Khẩu.[13]

Đi sứ Đông Ngô

Lưu Bị rút về phương Nam, đóng ở Hạ Khẩu, Lỗ Túc bên Đông Ngô tới gặp, khuyên liên minh với Tôn Quyền. Gia Cát Lượng nói với Lưu Bị: "Việc rất đã gấp, xin được phụng mệnh nhờ Tôn tướng quân cứu giúp". Bị đồng ý để Lượng theo Túc đi Giang Đông. Trong Xuất sư biểu có nhắc đến việc này: "Sau này ngẫm lại, nhận việc trước lúc bại quân, phụng mệnh giữa lúc nguy nan".

Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung đã hư cấu ra các tình tiết nhân vật Khổng Minh tranh luận làm bẽ mặt một loạt quan văn "hủ nho" của Đông Ngô gồm Trương Chiêu, v.v. Nhân vật Gia Cát Lượng còn sử dụng bài phú Đồng Tước đài để khích Chu Du, đây là việc hoàn toàn không có thật bởi 5 năm sau đó Tào Thực mới làm bài phú này.[14]

Tôn Quyền mặc áo vải thô, tiếp sứ giả ở doanh trại dựng tạm.[15] Gia Cát Lượng giỏi xét người, mới đến cửa đã đoán được cá tính của Quyền, nên ông dùng kế khích tướng, cường điệu uy thế của Tào Tháo và khuyên Tôn Quyền quy phục.[16] Quyền hỏi: "Nếu như lời ông, sao Lưu Dự Châu không hàng Tào đi?" Lượng đáp: "Điền Hoành chỉ là 1 tráng sĩ nước Tề còn không chịu nhục, huống chi Lưu Dự Châu vốn là dòng vương thất, anh tài cái thế. Nếu việc chẳng xong là bởi ý trời, sao có thể hàng Tào!"[17]

Tôn Quyền nói rõ quyết tâm chống Tào, nhưng vẫn nghi ngại không đánh nổi, hỏi rằng: "Dự Châu (Lưu Bị) cũng mới thua trận, sao có thể chống nổi nạn này?"

Gia Cát Lượng bèn đưa ra phân tích tình thế và thực lực của Tháo và Bị:

  • Lưu Bị tuy mới thua trận nhưng 10.000 thủy quân còn nguyên vẹn, quân Giang Hạ cũng được khoảng 10.000 người.[18]
  • Quân Tào tuy đông nhưng đã rất mỏi mệt sau khi truy kích Lưu Bị hơn 300 dặm.[19]
  • Quân Tào đến từ phương Bắc, vốn không quen thủy chiến.[20]
  • Tào Tháo chỉ vừa mới chiếm được Kinh Châu, lòng người chưa phục.[21]

Lượng nói tiếp rằng nếu phá được Tào Tháo sẽ lập thành được thế chân vạc, "cơ hội thành bại, là việc ở hôm nay vậy". Quyền hài lòng, đồng ý liên minh.[22]

Tôn Quyền quyết tâm đánh Tào

Tuy nhiên, Bùi Tùng Chi chú giải Tam quốc chí cho rằng người đầu tiên khuyên Tôn Quyền đánh Tào là Lỗ Túc, sau đó Chu Du thuyết phục được Quyền hạ quyết tâm, chứ không phải Gia Cát Lượng.[23] Có lẽ Tôn Quyền chỉ muốn thử nghe phân tích của Lượng để quyết định có nên liên minh với Lưu Bị hay không, còn chuyện chống Tào thì đã quyết từ trước.

Tam quốc chí chép:[24] Tào Tháo gửi thư chiêu hàng Tôn Quyền, Quyền gọi quần thần dưới trướng đến hỏi kế sách. Đa phần đều cho rằng nên hàng, bởi Tháo mang danh Thiên Tử nay lại được thủy quân Kinh Châu, lợi thế của Trường Giang đã không còn. Chu Du không đồng ý, cho rằng Tào Tháo "giả danh tướng nhà Hán, kỳ thực là giặc nhà Hán", còn Tôn Quyền "thừa kế cơ nghiệp cha anh, binh hùng tướng mạnh, phải vì nhà Hán diệt trừ kẻ bạo tàn", đồng thời phân tích ra 4 điều kỵ trong binh pháp mà Tào Tháo đang phạm phải:[24]

  • Đất Bắc chưa thật sự yên, vùng Tây Lương có Mã Đằng, Hàn Toại là mối lo sau lưng Tháo.[24]
  • Thủy chiến vốn là sở trường của quân Ngô-Việt, không phải của quân phương Bắc.[24]
  • Thời tiết hiện rất lạnh, ngựa không có cỏ ăn.[24]
  • Binh sĩ Trung Nguyên không quen thủy thổ phương Nam, sẽ sinh bệnh tật.[24]

Chu Du tiếp tục: "Du này xin được cấp ba vạn tinh binh, tiến đến đóng giữ Hạ Khẩu, bảo đảm sẽ vì Tướng quân mà phá tan quân giặc."[24]

Tôn Quyền nghe Chu Du phân tích xong, nói "Ngươi nói rất hợp ý cô, thực là trời đem ngươi đến cho ta vậy!",[24] rồi chụp lấy thanh đao chém đứt góc bàn, nói: "Ai còn dám nói đến chuyện đón rước Tháo, sẽ như cái bàn này."[25]

Kết thúc buổi chầu, Chu Du lại vào thưa về thực lực đôi bên để Tôn Quyền khỏi lo lắng:[26]

  • Quân Tào nói có tổng cộng 800.000, thật ra chỉ có khoản 150.000 đến 160.000, lại mệt mỏi lắm rồi.[26]
  • Hàng quân của Lưu Biểu chỉ 70.000 đến 80.000, trong lòng lại hồ nghi.[26]
  • Địch vừa mệt vừa không đồng lòng nên dẫu đông cũng không đáng sợ, chỉ cần 50.000 binh là đủ khắc chế.[26]

Tôn Quyền vỗ vai Chu Du nói "Khanh nói rất hợp lòng Cô". Trước mắt không tập hợp nổi 50.000 người, Chu Du lĩnh 30.000 binh cùng Trình Phổ đi đối địch Tào Tháo ở Xích Bích.[26]

Theo Trần Văn Đức, tác giả sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện (thuộc thể loại Tam Quốc ngoại truyện), thì những trao đổi trên giữa Chu Du và Tôn Quyền cho thấy do Chu Du có thiên tài vạch sách lược chiến đấu, lại liên tục ở chiến trường nên thông tin tình báo của ông rất phong phú và chính xác, các quan viên tướng lĩnh của Đông Ngô ở Sài Tang đều không bằng, Gia Cát Lượng dẫu chú trọng việc tình báo cũng không thể nắm rõ tình hình bằng Chu Du.[27]

Gia Cát Cẩn lôi kéo

Đại thần của Ngô là Trương Chiêu thấy Gia Cát Lượng trẻ tuổi và có tài, có ý muốn lôi kéo, bèn đề nghị Tôn Quyền lệnh cho Gia Cát Cẩn đến thuyết phục Gia Cát Lượng. Tôn Quyền bèn cho gọi Gia Cát Cẩn bảo rằng: "Gia Cát Khổng Minh là em của tiên sinh, là người có tài, em nghe theo anh là lẽ đương nhiên nếu ông ta muốn ở lại cùng lo đại sự, ta sẽ tự tay viết thư nói rõ với Lưu Dự Châu".

Gia Cát Cẩn đến gặp Gia Cát Lượng, không ngờ Gia Cát Lượng lại nói trước, khuyên Gia Cát Cẩn theo về với Lưu Bị sẽ càng phát huy được khả năng. Gia Cát Cẩn không nài ép được, đành trở về báo cáo với Tôn Quyền: "Em tôi phụ tá Lưu Dự Châu, vì nghĩa chẳng thể hai lòng, Lượng không chịu ở Đông Ngô, cũng như Cẩn không thể rời Giang Đông vậy".

Trận Xích Bích, Giang Lăng

Trong trận Xích Bích, Chu Du thống lĩnh quân liên minh, dùng kế hỏa công của Hoàng Cái đánh bại quân Tào. Và trong trận Giang Lăng (208-209) tiếp sau đó, liên quân Tôn - Lưu do Chu Du và Lưu Bị dẫn đầu tiếp tục khiến Tào Nhân phải tháo chạy khỏi Nam Quận sau hơn một năm trời vây hãm. Trong hai trận chiến này, Gia Cát Lượng không tham gia về mặt quân sự, cũng không được ghi chép về thành tích cầm quân nào, vai trò của ông chỉ là về ngoại giao và nội chính.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra một loạt sự kiện thể hiện mưu trí "thần thánh" của Gia Cát Lượng như "thuyền cỏ mượn tên", cùng Chu Du bày mưu phóng hoả, lập đàn hô phong hoán vũ để gọi gió đông, đặt phục binh ở hẻm Hoa Dung đón đầu Tào Tháo, thừa cơ nẫng tay trên chiếm cả Giang Lăng và Tương Dương khiến Chu Du phát uất thổ máu... Tam quốc diễn nghĩa còn hư cấu ra cả chuyện Chu Du bị Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức, phải than rằng: "Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?" rồi thổ huyết mà chết. Sự thực là Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, hoàn toàn không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.

Tác giả Trần Văn Đức trong sách Khổng Minh Gia Cát Lượng Đại Truyện cho rằng Chu Du là người khiêm tốn, bao dung, đã rất chiếu cố đến Gia Cát Lượng,[28] và ông có lẽ đã học được nhiều kinh nghiệm ở Chu Du và Lỗ Túc[28] bởi khi trận Xích Bích diễn ra thì Chu Du 34 tuổi, Lỗ Túc 37 tuổi, họ đã có 15 năm kinh nghiệm chính trị và thực tế chiến trường, trong khi Gia Cát Lượng khi đó mới 28 tuổi và mới chỉ tham gia chính sự được 1 năm.[29]

Sau khi trở về với Lưu Bị, Gia Cát Lượng sau khi quan sát tình thế toàn cục, đã đề nghị Lưu Bị ngầm bố trí lực lượng khác với sắp xếp của Chu Du. Ông cho rằng Chu Du chỉ giao cho Lưu Bị nhiệm vụ thứ yếu (chặn đánh tàn quân Tào Tháo), sau này nếu có thắng lợi cũng không thu được gì nhiều. Ông cho rằng không cần phải cố sức đánh quân Tào Tháo rút chạy để không tổn hại binh sĩ của mình, cần giữ gìn thực lực để làm những công việc cần thiết sau đó. Tuy nhiên, theo các ghi chép trong chính sử thì lực lượng của Lưu Bị cũng bị tổn hại nhiều trong trận Giang Lăng: Quan Vũ được Lưu Bị biệt phái mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân, nhưng liên tiếp bị Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông, tướng giữ Tương Dương là Nhạc Tiến đánh bại, còn bị Văn Sính dùng thủy binh đuổi đánh, bị đốt sạch thuyền và quân nhu, mất hết thủy quân Giang Hạ.[30]

Gia Cát Lượng cho rằng Giang Lăng là mục tiêu rất quan trọng song cũng là điều mấu chốt mà Tào Tháo và Chu Du cùng quan tâm, bởi thế nên khích lệ Chu Du đem toàn lực đoạt lại Giang Lăng để đôi bên cùng hao tổn binh lực, còn mục tiêu thực của Lưu Bị là chớp thời cơ bình định các quận phía nam Kinh Châu giáp Trường Giang, để tự mình có một địa bàn đứng chân và khôi phục được Kinh Châu sau này. Lưu Bị chấp thuận làm theo.

Trong thời gian Lưu Bị và Trương Phi cùng hiệp trợ tác chiến với Đông Ngô ở phía bắc trong hội chiến Giang Lăng, Gia Cát Lượng dẫn quân sĩ cùng Quan Vũ và Triệu Vân, phối hợp với quân Giang Hạ của Lưu Kỳ, lấy các quận phía nam làm đại bản doanh, bình định bốn quận là: Vũ Lăng, Trường Sa, Quế DươngLinh Lăng.

Sau cuộc chiến Xích Bích, Đông Ngô tuy giành được đại thắng song lại tổn thất không ít trong chiến dịch Giang Lăng sau đó, đặc biệt là tướng Chu Du bị trọng thương, dẫn đến cái chết sau này, mà sau chiến thắng chỉ thu được ba quận huyện ở Kinh Châu. Thu được nhiều nhất lại là Lưu Bị, ông làm theo kế hoạch của Gia Cát Lượng nhân cơ hội thâu tóm bốn quận ở phía nam, chẳng những hồi sinh sự nghiệp mà còn có được cơ sở rất quan trọng để sau này tranh thiên hạ. Gia Cát Lượng có thành công lớn nhất là tham mưu sách lược chiếm lấy bốn quận nam Kinh Châu, có thể nói là táo bạo và rất thành công. Tuy nhiên, việc Lưu Bị công ít, lợi nhiều và Quan Vũ ỷ được giao giữ Kinh châu mà hay hống hách với Đông Ngô dẫn đến rạn nứt quan hệ liên minh với nước này. 12 năm sau, khi Lỗ Túc mất, không còn ai chủ hòa, Tôn Quyền sai Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, giết chết Quan Vũ.

Vạch chính sách giúp Lưu Bị bình Kinh Châu

Gia Cát Lượng được phong Trung lang tướng, giao cai quản Linh Lăng, Quế Dương và Trường Sa, thu thuế và lương thực để chu cấp cho quân đội. Theo sách lược của Gia Cát Lượng, các quận huyện và tướng lĩnh phía nam Kinh Châu, cùng tuyên thệ ủng hộ Lưu Bị kế nhiệm chức Kinh Châu mục. Vai trò của Gia Cát Lượng lúc này, cũng giống như thừa tướng Tiêu Hà giúp Lưu Bang lo liệu tích trữ lương thảo, đáp ứng nhu cầu của quân đội.

Gia Cát Lượng nhìn thấy phái phản Tào ở Kinh Châu như rắn không đầu, bèn có ý nhắc Lưu Bị đối đãi thật tốt với Lưu Kỳ, để Lưu Kỳ làm vây cánh cho mình. Để làm cho thực lực của Lưu Bị mạnh lên, Gia Cát Lượng đã vận dụng sách lược tích lũy, ông sớm đề nghị với Lưu Bị sắp xếp lại dân di cư, xây dựng lực lượng cơ bản. Với tình thế Kinh Châu lúc ấy đã làm tăng thêm danh tiếng của Lưu Bị ở Kinh Châu. Ở giai đoạn này, biểu hiện "lấy nhu khắc cương, lấy nhược khắc cường" của Lưu Bị chính là công lao của quân sư Gia Cát Lượng.

Lo việc hậu cần giúp Lưu Bị chiếm Ích Châu

Năm 211, Lưu Chương mời Lưu Bị vào Tây Xuyên giúp chống Trương Lỗ, Gia Cát Lượng được giao ở lại Kinh Châu cùng Quan VũTrương Phi.

Năm 212, Lưu Bị đánh úp Lưu Chương, chiếm đánh thành trì ở Thục. Trương Phi, Triệu Vân và Gia Cát Lượng được lệnh dẫn quân vào Xuyên tiếp ứng. Tuy nhiên quân sư Bàng Thống bị trúng tên lạc mà chết.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Bàng Thống bị Trương Nhiệm phục kích bắn chết ở gò Lạc Phượng, Gia Cát Lượng bày mưu bắt Trương Nhiệm báo thù cho Thống.

Năm 214, Mã Siêu bỏ rơi vợ con, từ chỗ Trương Lỗ chạy đến theo Lưu Bị. Bị phái Siêu đến tham gia vây Thành Đô. Quân dân trong thành rúng động, Lưu Chương xin hàng.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện Mã Siêu đại chiến Trương Phi, sau đó Lưu Bị nhờ Gia Cát Lượng bày mưu dụ hàng Mã Siêu.

Trong suốt thời gian này, Gia Cát Lượng vẫn chủ yếu là lo việc "thuế má, tiền lương", công việc của Tiêu Hà thời trước.

Làm thừa tướng

Giúp Lưu Bị cai quản Ích Châu

Trần Thọ trong Tam Quốc Chí viết rằng:

"Lưu Bị sau khi bình định được Thành Đô, phong Gia Cát Lượng là Quân sư tướng quân, chức Tả tướng quân (đây là chức quan quan trọng của Lưu Bị) để trông coi việc lớn. Lưu Bị thường dẫn quân đội đi chinh chiến bên ngoài để Gia Cát Lượng ở Thành Đô trông coi triều chính, chẳng bao lâu khắp vùng Ích Châu đều dư thực dư binh"[31]

Theo Dịch Trung Thiên, chức vụ Gia Cát Lượng lúc này là "Tổng lý đại thần" hay "Đại quản gia" trong phủ Tả tướng quân của Lưu Bị, không phải là "Tổng tư lệnh ba quân" hay "Tổng tham mưu trưởng". Nhiệm vụ chủ yếu của ông là là hành chính, dân chính, không phụ trách kế hoạch quân sự, khi Lưu Bị xuất chinh thì ông được giao trấn thủ Thành Đô, lo việc cai trị dân chúng. Trần Thọ nhận xét lúc này với Lưu Bị thì "Gia Cát Lượng là thân thích, Pháp Chính là mưu chủ, Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu là nang vuốt"[32]

Trong cương vị thừa tướng, Gia Cát Lượng đã dốc tâm điều hành công việc quản lý. Gia Cát Lượng khi thấy Tưởng Uyển làm việc sơ ý, có nói với Lưu Bị: "Việc chính sự lấy yên dân làm gốc, không lấy trang sức làm đầu".

Đối với việc cầm quyền, ông hiểu rõ chỗ nào thì cần khoan dung, chỗ nào thì cần dùng luật nghiêm khắc. Sách Tư trị thông giám có ghi rằng: “Gia Cát Lượng phụ tá Lưu Bị cai quản đất Thục pháp lệnh rất nghiêm, tầng lớp thế gia quan liêu đặc quyền ở Ích Châu chịu không nổi thường vẫn oán thán”. Khi Pháp Chính khuyên ông nên học theo Hán Cao tổ (giảm bớt hình phạt cho giới quyền quý), ông trả lời:[31]

Tiên sinh chỉ biết một mà không biết hai, nước Tần thi hành chế độ hà khắc dẫn đến dân tình oán hận, nơi nơi phản loạn, thiên hạ bởi thế đất lở ngói vỡ. Lưu Chương vốn nhu nhược lại cố chấp nên chính trị ở đất Thục không phát huy được, chẳng nêu đức độ, hình phạt chẳng đủ, tầng lớp quan liêu thế tộc thừa cơ giành độc quyền, đạo quân - thần chẳng rõ ràng, nền luân lý xã hội cũng tan mất cả. Thực ra, đối với những kẻ quan liêu có đặc quyền này, nếu được sủng ái thái quá, lại làm cho họ không nghĩ đến trọng danh vị, lơ là trách nhiệm. Nếu ban ơn cho họ sau này ân huệ ít đi, họ sẽ oán thán, lại làm khó cho việc thực thi pháp lệnh của chính phủ. Nay ở đất Thục chứng bệnh lớn là ở đấy, nên ta mới nêu cao chánh pháp, để pháp lệnh có thể phát huy hiệu quả khiến nhân dân được bảo vệ chu đáo. Nên hạn chế quyền thế của bọn quan liêu thế tộc, khiến họ phải gìn giữ tốt vị trí của mình.

Gia Cát Lượng quan tâm đến đời sống nhân dân ở đất Thục, nên sau 3 năm, Ích Châu đã đủ lương, đủ lính, có thể cung ứng đầy đủ cho nhu cầu tiền tuyến của Lưu Bị. Để ổn định tài chính, Gia Cát Lượng cho đúc tiền mới, bình ổn vật giá, lập ra quan chợ chuyên quản lý thị trường. Trước kia, Tào Tháo đúc tiền lớn "Ngũ thù" vẫn chẳng thể cứu vãn được tình hình tiên tệ rối loạn từ cuối thời Đông Hán. Ở Đông Ngô, Tôn Quyền vào khoảng năm 236 đến năm 238 đã hai lần thay đổi đồng tiền, cho thấy tiền tệ cũng rất không ổn định. Lưu Bị sau khi chiếm được Ích Châu, cho đúc tiền 100 đồng, cũng chưa có biến đổi gì xáo trộn, cho thấy cách xử lý của Gia Cát Lượng về vấn đề này thành công hơn 2 nước kia. Tiền tệ của nước Thục, chẳng những được lưu thông trong nước mà ở vùng Kinh Châu lúc đó cũng lưu hành tiền tệ của Thục Hán. Được Gia Cát Lượng cố gắng điều hành, sự phát triển kinh tế của Thục Hán lúc đó được xem là khá thành công. Viên Chuẩn đời Tấn đối với việc này có khen rằng "Việc điều hành của Gia Cát Lượng ở Thục đã đem lại ruộng đất mở mang, kho lương sung túc, khí giới sắc bén, sản vật dồi dào... từ chỗ suy yếu mà sửa sang được mọi việc, khuyên khích dân cố gắng"[33].

Nhận ủy thác của Lưu Bị

Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến thua trận Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Lưu Bị sai Mã Lương vẽ sơ đồ doanh trại quân mình, đem về hỏi Gia Cát Lượng. Lượng xem xong đoán Lưu Bị sẽ thất bại. Trên thực tế Mã Lương vẫn ở cùng Lưu Bị và chết trong trận Di Lăng.Tam Quốc Diễn Nghĩa còn hư cấu ra việc Lục Tốn đuổi theo Lưu Bị, bị lạc vào một "thạch trận" có ma thuật biến hóa khôn lường do Gia Cát Lượng lập ra. Sau khi được cha vợ Lượng là Hoàng Thừa Ngạn cứu ra, nhân vật Lục Tốn "thừa nhận" rằng Lượng tài cao hơn mình nhiều.Miếu thờ mô tả cảnh Lưu Bị ủy thác lại triều đình cho thừa tướng Gia Cát Lượng

Lưu Bị thua trận, hổ thẹn với nhân dân mà mắc bệnh nặng. Trước khi chết, ông đã ủy thác việc nước cho Gia Cát Lượng. Di chiếu của Lưu Bị nhắc nhở Thái tử Lưu Thiện rằng[34]:

Trẫm lúc mới ốm chỉ mắc bệnh lị mà thôi, sau chuyển sang tạp bệnh, sợ rằng chẳng qua khỏi. Người ta 50 tuổi chẳng nói là yểu, ta đã hơn 60 tuổi, sao phải ân hận nữa, chẳng đau xót gì cho mình, chỉ nghĩ đến anh em khanh (chỉ thái tử Lưu Thiện). Quan Bộc xạ tới đây, nói rằng Thừa tướng khen khanh sáng suốt hiểu biết, tiến bộ rất mau, vượt quá ước vọng của y, nếu thực được như thế, ta sao còn phải lo lắng nữa! Gắng lên, gắng lên! Chớ vì điều ác nhỏ mà làm, chớ vì điều thiện nhỏ mà không làm. Chỉ có hiền chỉ có đức, mới có thể thu phục được người. Cha các ngươi đức bạc, chớ nên bắt chước. Ngươi nên đọc sách Hán thư - Lễ ký, những lúc nhàn nhã nên xem các sách của Chư tử cùng với Lục Thao-Thương quân thư, cũng giúp tăng thêm ý chí và trí tuệ. Nghe nói Thừa tướng chỉnh lý các sách Thân-Hàn-Quản tử-Lục Thao đều thông suốt hết cả, chưa đưa ra ngoài, e rằng lỗi đạo, ngươi nên phải tự thân đến cầu học lấy

Lúc lâm chung, Lưu Bị cho gọi Lỗ vương (một người con thứ) đến dặn nhỏ rằng: "Sau khi ta mất, anh em chúng mày phải coi Thừa tướng như cha, lệnh cho ngươi làm cộng sự giúp cho Thừa tướng mà thôi."[34] Gia Cát Lượng nghe vậy khóc mà quỳ xuống tâu rằng: "Thần xin dốc sức làm tay chân, theo đúng lẽ trung trinh, nguyện chết không đổi vậy".

Phò tá Lưu Thiện

Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi, Gia Cát Lượng thâu tóm quyền lực, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Lưu Thiện nói với ông: Chính là họ Gia Cát đã cứu quả nhân.[34]

Ngay sau đó, Gia Cát Lượng nỗ lực xây dựng liên minh Đông Ngô - Thục Hán. Không ít đại thần Thục Hán phản đối vì Lưu Bị bệnh mất là do bại trận trước Đông Ngô. Song Gia Cát Lượng biết rằng đại cục khôi phục lại nhà Hán là quan trọng nhất. Nếu như muốn có lực lượng đầy đủ đối chọi được Tào Ngụy ở phương Bắc thì phải xây dựng sự ổn định và trạng thái hoà bình ở phía Đông, việc liên minh với Ngô là điều tuyệt đối cần thiết.

Về đối nội, Gia Cát Lượng xác định kế sách, chú trọng khuyến nông, giảm thuế cho dân và phát triển sản xuất:

  • Ông hạ lệnh chính quyền các cấp quan tâm thật sự đến nông dân, khi trưng dụng phu phen tạp dịch tuyệt đối không chiếm dụng thời gian gieo trồng và gặt hái của nông dân, chẳng được hô khẩu hiệu suông. Cũng giống như Tào Tháo, Gia Cát Lượng rất xem trọng chính sách đồn điền bởi đó không những là nơi đóng quân khi có chiến tranh, làm tốt quan hệ quân dân, lại có thể giải quyết vấn đề lương thực.
  • Gia Cát Lượng rất xem trọng thủy lợi, ông đặt ra quan chủ quản phụ trách bảo quản, tu bổ và quản lý kênh Đô Giang ở trạng thái tốt nhất, nâng cao được sức tưới nước giúp cho sản xuất nông nghiệp ở Thục được rất nhiều. Hiện nay ở Bá Hà phía tây bắc Thành Đô, có một con đê dài hơn 9 dặm, gọi là "đê Gia Cát", truyền thuyết nói là Gia Cát Lượng đã chỉ đạo xây dựng để ngăn chặn hồng thủy tràn vào vùng đất nông nghiệp thấp. Hiện nay ở Thành Đô vẫn lưu truyền câu chuyện Gia Cát Lượng tự mình dẫn đầu các tráng đinh đi đắp đê.
  • Gia Cát Lượng cho thiết lập lại cơ cấu quốc doanh về muối sắt, quan Tư diêm hiệu úy (đầu tiên là Vương Liên) và Tư kim trung lang tướng (đầu tiên là Trương Duệ) phụ trách quản lý sản xuất muối và sắt, chế tạo nông cụ, binh khí, không để cường hào và quan lại câu kết chiếm làm của riêng nguồn lợi quốc gia. Tư diêm hiệu uý của Thục Hán đem lại mối lợi rất lớn về muối, giúp ích nhiều cho quốc gia.

Chỉ huy quân sự

Từ khi phò tá Lưu Bị, Gia Cát Lượng chủ yếu là một chính khách, đại sứ, và lo chuyện kinh tế, pháp luật và hậu cần, ít khi ra trận tác chiến. Trong suốt chiến dịch Hán Trung, Lưu Bị thống lĩnh đại quân cùng các tướng lĩnh giao chiến với quân Tào, còn Gia Cát Lượng ở lại Thành Đô lo chuyện nội chính và hậu cần. Tuy nhiên, sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng bắt đầu phải lo cả chuyện quân sự.

Bình định Nam Trung

Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước thì vùng Nam Trung phía tây nam nước Thục Hán nổi loạn. Tuy dân ở đây đa phần là những tộc người thiểu số, những kẻ cầm đầu lại chủ yếu là người Hán.

Cao Định, Ung Khải, Chu Bao nổi loạn

Thời Lưu Bị mới chiếm được Ích Châu đã bổ nhiệm Đặng Phương (người Nam Quận) làm Thái thú ở Chu Đề. Phương ốm chết, Bị bổ nhiệm Lý Khôi làm Thứ sử Giao Châu. Lưu Bị đông chinh đánh Ngô, "tẩu soái" là Cao Định ở Việt Huề làm phản, lẩn tránh quân của Lý Nghiêm.[35]

Khi Lưu Bị chết, Cao Định lại lộng hành, đánh phá thành trì, xưng vương ở Việt Huề. Cường hào ở Ích Châu là Ung Khải (hậu duệ Hợp hương hầu Ung Xỉ) cũng dấy binh nổi dậy ở Kiến Ninh, giết chết thái thú. Gia Cát Lượng phái Trương Duệ thay chức thái thú, nhưng cũng bị Ung Khải bắt được, đem nộp sang Đông Ngô. Tôn Quyền sai Thái thú Giao ChỉSĩ Nhiếp phong Khải làm Thái thú Vĩnh Xương.[35]

Gia Cát Lượng sai Đặng Chi đi sứ Đông Ngô, cắt đứt ngoại viện của Ung Khải, lại sai Thường Phòng đi khôi phục quyền cai trị Nam Trung. Phòng tra khảo rồi giết quan chủ bạ quận Tang Ca, nói Thái thú Tang Ca là Chu Bao có ý hưởng ứng Ung Khải. Chu Bao giết Thường Phòng, vu cáo Phòng mưu phản. Gia Cát Lượng "thí tốt" cho giết gia quyến của Thường Phòng, lưu đày 4 người anh em của Phòng đến Việt Huề.[35]

Ung Khải liên minh với Cao Định, tấn công Vĩnh Xương. Lã Khải[36] đóng cửa thành chống cự. Ung Khải không đánh được, thấy thế yếu dần, liên hệ với Đầu mục ở quận Ích Châu là Mạnh Hoạch. Hoạch kích động người Di, khiến họ đi theo Ung Khải, nổi dậy khắp vùng Nam Trung.[35]

Gia Cát Lượng Nam chinh

Gia Cát Lượng phải đem quân xuống phía nam để thu phục. Mã Trung theo đường mòn Tứ Xuyên dẫn quân đánh Chu Bao ở Tang Ca. Lý Khôi đánh Ung KhảiMạnh Hoạch. Gia Cát lượng tự đi sau, hợp quân ở Điền Trì. Tuy nhiên, tướng lĩnh và binh lực huy động không lớn. Thực tế, việc đánh bại quân phản loạn thiếu tổ chức chẳng khó gì.[35] Quân Thục với số đông và quân đội chính quy nhanh chóng áp đảo, và không lâu sau đã đánh bại Chu Bao. Ung Khải bị thuộc hạ Cao Định giết, còn Cao Định sau đó tử trận. Mạnh Hoạch dẫn tàn dư của Ung Khải chạy về Ích Châu, kết hợp với các bộ lạc phía Nam vốn thù hận người Hán.[35]

Nhận thấy uy tín và ảnh hưởng sâu rộng của Mạnh Hoạch ở vùng Nam Trung và vì muốn giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa các dân tộc thiểu số vùng này với triều đình Thục Hán nên Gia Cát Lượng quyết định đánh vào lòng người, coi đó là chiến thuật chủ đạo. Gia Cát Lượng không thực hiện sự nghiêm khắc như trước, trái lại vận dụng một chính sách khoan dung "vô tiền khoáng hậu" trong lịch sử Trung Quốc.

Theo lời Mã Tốc, ông hạ lệnh khi đánh nhau với Mạnh Hoạch, quân Thục chỉ được phép bắt sống, không được giết chế hoặc làm họ bị thương.[37] Mạnh Hoạch bị bắt rồi Gia Cát Lượng lại thả ra, cứ như vậy lặp đi lặp lại đến 7 lần. Nghệ thuật tác chiến chính trị, tâm lý của Gia Cát Lượng thể hiện rõ rệt trong chiến dịch này. Cuối cùng Mạnh Hoạch tâm phục khẩu phục, hoàn toàn chịu thần phục triều Thục Hán. Đến lần thứ 7, khi Gia Cát Lượng định thả Mạnh Hoạch thì Mạnh Hoạch không chịu về vì ông ta nhận thấy Gia Cát Lượng quả thật là con người phi thường và trong thâm tâm không có ý thù địch với mình. Mạnh Hoạch thành tâm nói với Gia Cát Lượng rằng: "Thiên uy của Thừa tướng như vậy thì người miền Nam không bao giờ làm phản nữa".

Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhằm phóng đại tầm cỡ của chiến dịch và ca tụng nhân vật Gia Cát Lượng, nhà văn đã tạo ra một loạt các nhân vật hư cấu như Mạnh Ưu, Mạnh Tiết, Chúc Dung phu nhân, Ngột Đột Cốt, Đái Lai Động chúa, Mộc Lộc đại vương, Đóa Tư đại vương, Kim Hoàn Tam Kết, Đổng Trà Na, A Hội Nam, Mang Nha Trường, Quan Sách... và các tình tiết như Lượng đem theo cả Ngụy DiênTriệu Vân (thực tế chỉ có Mã TrungLý Khôi), quân Thục uống phải nước độc, Gia Cát hỏa thiêu "quân giáp mây"...

Sau khi Mạnh Hoạch chịu thần phục thì các thế lực phản loạn ở miền Nam cũng nhanh chóng lần lượt quy hàng. Mùa thu năm 225, ba cánh quân Đông, Tây và Trung hội quân ở Điền Trì (Vân Nam) ăn mừng thắng lợi của cuộc Nam tiến và giai thoại bảy lần bắt bảy lần thả được truyền trụng.[37]

Một số nhà nghiên cứu lịch sử nghi ngờ rằng câu chuyện Gia Cát Lượng bắt Mạnh Hoạch tới 7 lần chỉ là "truyền thuyết trong dã sử".[38] Việc Gia Cát Lượng từng bắt rồi thả Mạnh Hoạch để "công tâm" là điều chẳng có gì nghi ngờ, nhưng lặp đi lặp lại tới 7 lần thì có chỗ khoa trương, "Thông giám thông lãm" viết rằng "bắt rồi tha, như là trò đùa, một lần đã là nhiều, thực tế chẳng thể đến 7 lần... huống chi kẻ địch lớn ở phương Bắc, việc khiến chiến sự kéo dài không quyết, tin rằng một người cẩn thận như Gia Cát Lượng sẽ không bao giờ làm".[38] Theo "Điền Vân kí lược" của Trương Nhược Tú, những địa điểm đưa ra về việc 7 lần bắt Mạnh Hoạch đều ở vùng Đại Lý và Bảo Sơn của Vân Nam. Sử tuy có ghi 7 lần bắt, 7 lần thả nhưng không ghi Gia Cát Lượng đã đến Điền Tây. Tác giả Trần Văn Đức cho rằng người đời sau đã lấy sự tích của Lã Khải (quan cai quản Điền Tây) hợp vào hình ảnh Gia Cát Lượng. Nhưng dẫu việc bắt Mạnh Hoạch có tới 7 lần hay không thì việc Gia Cát Lượng bắt rồi thả tướng địch vẫn là sự thực lịch sử. Gia Cát Lượng đích xác chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi đã bình định Nam Trung, cải thiện quan hệ với người dân tộc thiểu số địa phương, hoàn thành chiến dịch lớn "công tâm làm đầu" chưa từng có trong lịch sử.[38]

Các chiến dịch đánh nhà Tào Ngụy

Sau một thời gian chuẩn bị, căn cứ vào tình hình hiện tại, năm 227, Gia Cát Lượng quyết định tấn công Tào Ngụy, tiêu diệt họ Tào, giành lại giang sơn cho nhà Hán. Ông tấu lên Hậu chủ Lưu Thiện bản Xuất sư biểu nổi tiếng, trong đó nói rằng:

"Nay phương Nam đã bình định, binh giáp đã đầy đủ đáng khích lệ ba quân; nay bắc định Trung Nguyên, thần xin đem hết lòng khuyển mã, trừ sạch gian ác, phục hưng triều Hán về lại cố đô, như vậy là thần báo đáp được tiên đế, mà trúng với chức phận dưới bệ rồng vậy... Những mong bệ hạ uỷ thác để thần được đánh kẻ nghịch tặc, phục hưng nhà Hán; nếu chẳng thành công, xin bắt tội thần, để báo cáo cùng vong linh Tiên đế.".[39]

Hậu chủ Lưu Thiện chấp thuận, giáng chiếu: "Gia Cát thừa tướng cương nghị trung trinh, dốc lòng vì nước, (vì thế) Tiên đế trao việc thiên hạ, phù trợ quả nhân. Nay ban cho mao việt, cùng với phó thác trọng quyền, thống lĩnh bộ kỵ hai mươi vạn binh, nắm giữ nguyên nhung, thay trời tru phạt, trừ hoạn dẹp loạn, chiếm lại kinh đô, chính là dịp này"[40]

Lúc này, trong số các danh tướng của Thục Hán thì Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Hoàng Trung đều đã chết, còn Triệu Vân thì đã già. Dù đọc nhiều binh thư, nhưng Gia Cát Lượng ít khi ra trận mạc nên thiếu kinh nghiệm chỉ huy, vì vậy ông chọn sách lược tấn công thận trọng. Tướng quân dày dạn trận mạc là Ngụy Diên hiến kế dẫn một đội kỵ binh từ Hán Trung vòng sang hang Tý Ngọ để lẻn đến tập kích Trường An. Tam Quốc Chí (Ngụy Diên truyện) viết: mỗi lần Diên theo Lượng ra quân đều xin riêng một vạn tinh binh, men theo đường hẻm để hội quân với Lượng ở Đồng Quan, như việc năm xưa của Hàn Tín. Lượng nhất định không cho, Diên vẫn thường nói Lượng nhút nhát, than thở rằng tài năng của mình không được dùng hết.

Về việc tại sao Gia Cát Lượng không chấp nhận kế hoạch của Ngụy Diên, Dịch Trung Thiên cho rằng điều này là hợp lý, vì kế hoạch của Ngụy Diên có nhiều rủi ro. Thứ nhất, Ngụy Diên cho rằng Hạ Hầu Mậu (tướng giữ Trường An) sẽ bỏ chạy khi quân Thục Hán tới, nhưng điều này chưa chắc sẽ xảy ra, và nếu xảy ra thì vẫn có tướng khác tới ứng cứu, ví dụ như Quách Hoài, Tư Mã Ý. Thứ hai, đi đường Tý Ngọ thì quân Thục Hán phải hành quân gian khổ, đến Trường An thì đã kiệt sức, khó thắng nổi địch. Thứ ba, quân Ngụy đông hơn quân Thục Hán, nếu Ngụy Diên không sớm hạ được thành Trường An thì cả chục vạn quân Ngụy sẽ kéo tới chi viện, lúc đó thì 1 vạn quân của Ngụy Diên là quá ít, khó tránh khỏi bị tiêu diệt hết.
Mạnh Đạt phản Ngụy

Khi xưa, Mạnh Đạt sợ Lưu Bị bắt tội, chạy sang đầu hàng Ngụy vào năm 220, và được giao cai quản Tân Thành. Năm 227, Mạnh Đạt bất hòa với một số quan binh nhà Ngụy, bị nghi ngờ, lại muốn phản Ngụy về Thục.

Gia Cát Lượng sắp đem quân ra Kỳ Sơn, trao đổi thư từ với Mạnh Đạt, hối thúc Đạt làm phản chiếm lấy Thượng Dung. Tư Mã Ý đóng ở Uyển Thành gần đó viết thư lừa Mạnh Đạt, rồi hành quân gấp rút tới Tân Thành. Mạnh Đạt còn chưa kịp chuẩn bị, nhanh chóng bị bắt và bị giết.

Chiến dịch thứ nhất

Dù âm mưu dùng Mạnh Đạt đã bị phá vỡ, mùa xuân năm 228, Gia Cát Lượng vẫn xuất quân. Lão tướng Triệu Vân cùng Đặng Chi được giao đi theo đường Tà Cốc ra My Thành làm nghi binh, trong khi đó Gia Cát Lượng tự mình dẫn quân chủ lực tiến ra Kỳ Sơn.

Trước tin đại quân Thục tiến đánh, ba quận thuộc đất Lũng Hữu là Thiên Thủy, Nam An, An Định làm phản. Gia Cát Lượng được Khương Duy, một tiểu tướng của Ngụy.

Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra tình tiết Khương Duy rất tài giỏi, giao đấu cân sức với Triệu Vân, sau đó bị mắc mưu Gia Cát nên phải hàng. Gia Cát sau đó cho người đón mẹ già của Khương Duy về Thục. Trên thực tế mẹ Khương Duy vẫn ở Ngụy, viết thư gọi con về nhưng Duy không về.

Tào Duệ thân chinh từ Lạc Dương ra Trường An, sai đại tướng Trương Hợp đi Kỳ Sơn chống Gia Cát Lượng, và Tào Chân chi viện My Thành chống Triệu Vân.

Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa thêu dệt ra việc phò mã Hạ Hầu Mậu bất tài nhưng được làm tướng chống Gia Cát Lượng, bị Lượng liên tiếp đánh bại, xấu hổ chạy trốn không dám về nước. Trên thực tế ngay khi nghe tin Gia Cát Lượng tấn công, Tào Duệ nhanh chóng đích thân ra Trường An, thu binh quyền của Hạ Hầu Mậu và triệu hồi Mậu về kinh. Hạ Hầu Mậu sống sung sướng đến cuối đời, không biết chiến trận là gì.

Gia Cát Lượng sai Mã Tốc làm tiên phong, dẫn quân chặn Trương Hợp ở Nhai Đình. Mã Tốc vốn là thân tín của Lượng, cũng đọc nhiều binh thư nhưng thiếu kinh nghiệm trận mạc, trong khi Trương Hợp là danh tướng lâu năm của nhà Ngụy. Tốc coi khinh Vương Bình không biết chữ, không nghe lời khuyên của Bình, quân Thục đại bại nhanh chóng, Trương Hợp nhân đà tiến quân tái chiếm cả ba quận thuộc đất Lũng Hữu. Triệu Vân và Đặng Chi chỉ có ít quân già yếu làm nghi binh nên cũng bị Tào Chân đánh bại.

Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng bị mất bàn đạp tấn công, lỡ mất cơ hội đánh chiếm Lũng Hữu, đại quân Thục không thể tiến nữa buộc phải lui về Hán Trung. Chiến dịch của Thục Hán đến đây coi như thất bại. Ngoài việc giành được dân ở 4 quận của Ngụy, còn lại thì không thu được gì. Gia Cát Lượng ra lệnh rút quân và hành tội Mã Tốc, đồng thời xin tự giáng chức xuống 3 bậc thành Hữu tướng quân, đứng dưới cả Lý Nghiêm (đã lên Tiền tướng quân vào năm 226).

Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung có hư cấu thêm chi tiết "Không thành kế", theo đó Gia Cát Lượng không còn quân, một mình ngồi trên thành mở toang cửa gảy đàn nhưng vẫn đuổi được Tư Mã Ý. Sự kiện này hoàn toàn không có thật vì khi đó Tư Mã Ý vẫn trấn thủ Uyển Thành, và theo sách sử thì mãi đến chiến dịch thứ 4 đánh Ngụy thì Gia Cát và Tư Mã mới đối đầu nhau.Theo bộ sử Tam quốc chí, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước doanh trại quân Ngụy rồi ung dung chơi cờ, xung quanh không có binh sỹ hộ vệ mà chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, nhưng quân Ngụy sợ phục binh nên không dám ra đánh. Như vậy theo chính sử thì Gia Cát Lượng sử dụng "Không trận kế" để khiêu khích quân Ngụy, chứ không phải là "Không thành kế" để dọa quân Ngụy. "Không trận kế" đã chẳng có tác dụng, và sự kiện này cũng không diễn ra ở lần bắc phạt thứ nhất.

Về nguyên nhân thất bại, có người an ủi cho rằng nguyên do xuất quân lần này gặp bất lợi là do binh lực quá ít. Gia Cát Lượng đã nghiêm túc trả lời rằng: Không đúng như vậy, vì trong hai trận đánh ở Kỳ Sơn và Tà Cốc, quân Thục nhiều hơn quân Ngụy, nguyên nhân thất bại chính là do bản thân ông không dùng người không đúng. Gia Cát Lượng nói rằng từ sau này sẽ thưởng phạt nghiêm minh, khắc phục thiếu sót, và bất kỳ ai trung thành với đất nước đều có quyền vạch khuyết điểm của ông, có như vậy mới tiêu diệt được kẻ thù thống nhất được thiên hạ.

Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu ra việc Trương Bào làm tướng theo Gia Cát Lượng đánh Ngụy. Thực tế cả Quan Hưng lẫn Trương Bào đều chết yểu, chưa từng làm tướng.
Chiến dịch thứ hai

Tháng 12 năm 228, nhân cơ hội Lục Tốn của Đông Ngô đánh bại quân của Tào Hưu ở Thạch Bình, Gia Cát Lượng liền tổ chức cuộc Bắc phạt lần thứ hai. Trước khi xuất chinh, ông dâng lên bản Hậu xuất sư biểu, thể hiện quyết tâm hết lòng hết sức của Gia Cát Lượng vì nhà Thục Hán mặc dù việc thành bại của Bắc phạt bản thân ông không thể định đoạt. Bài biểu có hai câu nói nổi tiếng sau này đã trở thành biểu tượng cho tấm lòng trung thành của Gia Cát Lượng với nhà Thục Hán nói riêng và của các bậc trung thần với triều đình phong kiến nói chung:

Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi.[41]

Gia Cát Lượng quyết định tiến quân theo đường Trần Thương. Tuy nhiên, đại tướng Ngụy là Tào Chân đã đoán trước được Gia Cát Lượng lần sau đến đánh sẽ đi đường này, và giao cho Hác Chiêu tăng cường phòng thủ ải Trần Thương. Gia Cát Lượng bị bất ngờ trước sự phòng thủ kiên cố của quân Ngụy.

Dụ hàng Hác Chiêu không được, Gia Cát quyết tâm đánh thành. Thế nhưng trong suốt 20 ngày, quân Thục với quân số lên đến 40.000 - 50.000 vẫn không thể công phá được cửa ải. Hác Chiêu chỉ với 1000 quân đã giữ vững được đến khi viện binh của nhà Ngụy tới cứu.

Trương Hợp dự đoán rằng chỉ cần nghe tin mình đến, Gia Cát Lượng sẽ rút quân, và quả thực quân Thục rút lui trước khi viện binh của Trương Hợp đến Trần Thương. Tiểu tướng trong ải Trần Thương là Vương Song mở cửa đuổi theo quân Thục, bị phục binh bắn chết.

Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nhân vật Vương Song được phóng đại là một vị tướng có sức mạnh và tài nghệ thuộc hàng mạnh nhất của quân Tào Ngụy tại thời điểm đó, nhưng bị Ngụy Diên chém chết.
Chiến dịch thứ ba

Mùa xuân năm 229, Gia Cát Lượng phái Trần Thức đi đánh các vùng xa xôi ở Tây Bắc của nhà Ngụy. Tướng Ngụy Quách Hoài dẫn binh đối địch, nghe tin đại quân của Thục sắp đến thì rút lui. Trần Thức đánh lấy được hai quận là Vũ Đô và Dương Bình.

Gia Cát Lượng chiếm được hai quận nhỏ liền thu quân, báo tin thắng trận, được Hậu chủ phục chức Thừa Tướng.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu nên chuyện rằng Vương Lãng làm quân sư cho Tào Chân và Quách Hoài, đấu khẩu với Gia Cát Lượng trước trận, bị mắng đến uất quá từ trên ngựa ngã lăn xuống đất chết. Thực tế sử chỉ có ghi Vương Lãng từng gửi thư cho Gia Cát Lượng khuyên ông nên quy phục nhà Ngụy, Lượng không trả lời thư.
Nhà Ngụy phản công

Năm 230, nhà Ngụy muốn thay đổi tình thế từ bị động sang chủ động tấn công. Đại tướng Tào Chân cùng Tư Mã Ý dẫn 2 cánh quân tấn công Hán Trung. Số người ở đạo quân Tào Chân vượt quá 5 vạn, Tư Mã Ý cũng có 3-4 vạn, quân Quách Hoài do các đạo quân nhỏ của các tướng lĩnh hợp thành số người cũng có 1-2 vạn người.

Chiến dịch của quân Tào thất bại do trời mưa liên miên suốt hơn 30 ngày, đường núi bị đứt đoạn. Tào Duệ hạ lệnh thu quân, Gia Cát Lượng cũng không đuổi theo, hai bên không giao tranh gì. Tào Chân trên đường về bị mưa, ốm chết.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa thêu dệt ra chuyện Tào Chân đánh nhau với Gia Cát Lượng bị thua luôn. Lượng gửi thư chọc tức Tào Chân, Chân đọc thư xong thổ huyết chết. Thực tế Tào Chân chết bệnh ở Lạc Dương chứ không phải bị Gia Cát Lượng viết thư chọc tức mà chết, và khi Tào Chân làm đô đốc quân Ngụy đã đánh lui quân Thục trong lần bắc phạt thứ nhất và thứ hai.
Chiến dịch thứ tư

Cuối năm 230, quân Thục do Ngụy Diên dẫn đầu giao tranh với quân Ngụy do Phí DiệuQuách Hoài chỉ huy. Quân Thục thắng trận.

Năm 231, Gia Cát Lượng thống lĩnh đại binh ra Kỳ Sơn lần thứ 2, tiến hành cuộc Bắc phạt lần thứ tư.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa viết rằng "Khổng Minh 6 lần ra Kỳ Sơn", nhưng theo sách sử, Gia Cát Lượng chỉ 5 lần xuất quân đánh Ngụy, trong đó chỉ ra Kỳ Sơn lần thứ 1 và thứ 4. Còn 1 lần thì quân Thục Hán phòng thủ chống quân Ngụy.

Quân Thục lần này dùng xe trâu (trâu gỗ, ngựa máy) vận chuyển quân lương. Về phía nhà Ngụy, Tào Chân đã bị bệnh chết nên Tư Mã Ý làm thống soái, các tướng lĩnh Phí Diệu, Đới Lăng, Quách Hoài làm tiên phong. Đây là lần đầu tiên Gia Cát và Tư Mã đối đầu nhau, cũng là lần đầu Tư Mã Ý cầm đại quân tham gia chiến tranh.

Gia Cát Lượng chia quân ở lại Kỳ Sơn, còn mình đến Thiên Thủy lén gặt lúa. Tư Mã Ý cũng dẫn quân đến Thiên Thủy, Gia Cát Lượng không chủ quan khinh địch, ra lệnh cho quân lính chiếm cứ vùng rừng núi hiểm trở, bố trí trận địa sẵn sàng. Đại quân hai bên đối mặt nhau nhưng vẫn chưa xảy ra giao tranh.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Gia Cát Lượng dùng phép thuật "độn giáp" để gặt xong lúa, khiến Tư Mã Ý vừa kinh sợ vừa thán phục.

Gia Cát Lượng rút lui về phía Kỳ Sơn nhằm lôi kéo quân Ngụy ra đánh. Tư Mã Ý cho quân đuổi theo nhưng vẫn đề phòng cẩn thận, khi quân Thục dừng lại thì họ cũng dừng lại. Lúc này nhiều tướng Ngụy cho rằng Tư Mã Ý nhát gan. Bị các tướng thúc ép, Ý đành phải giao chiến. Tư Mã Ý đích thân dẫn quân đi, một cánh khác do Trương Hợp thống lĩnh đánh vào phía Nam của quân Thục ở Kỳ Sơn. Gia Cát Lượng sai Ngụy Diên, Ngô Ban, Cao Tường ra nghênh địch. Quân Ngụy bị thua, tổn thất hơn 3000 người, 500 bộ giáp và cung nỏ. Ý rút quân về Thiên Thủy, cố thủ không đánh.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra việc Gia Cát Lượng dùng kế tăng bếp lừa Tư Mã Ý ra đánh. Thực tế đây là kế của Ngu Hủ thời Đông Hán lừa quân Khương trước đó gần 70 năm.

Tháng 6 năm 231, mưa to khiến việc vận tải lương thực rất khó khăn. Quân Thục phải rút lui vì hết lương ăn. Trương Hợp dẫn quân đuổi theo đến Mộc Môn thì bị phục kích bắn chết.

Tam Quốc chí ghi rằng Tư Mã Ý khuyên Trương Hợp không nên đuổi theo quân Thục Hán nhưng ông không nghe nên bị phục kích, nhưng theo các ghi chép khác thì Trương Hợp lúc đó là lão tướng nhiều kinh nghiệm nên không muốn đuổi theo Gia Cát Lượng, nhưng Tư Mã Ý hoặc là vì thiếu hiểu biết hoặc là cố ý hại Trương Hợp để tranh quyền nên ra lệnh cho ông đuổi theo. Trương Hợp được phong tước Hầu sau khi chết.
Chiến dịch thứ năm

Bốn lần Bắc phạt phải rút giữa chừng vì khó khăn trong cung ứng lương thực. Song Gia Cát Lượng liên tục đối trận với những danh tướng bậc nhất Tào Ngụy như Tào Chân, Trương Cáp và Tư Mã Ý, đặc biệt là sau khi tập kích giết chết Trương Cáp, Gia Cát Lượng càng tin vào khả năng đánh bại Tào Ngụy.

Để cải thiện vấn đề tải lương, ông đã cải tiến thêm một bước trâu gỗ ngựa máy, đồng thời cho khai khẩn với quy mô lớn ở Hoàng Sa (tỉnh Thiểm Tây), thao luyện việc vận tải bằng trâu gỗ ngựa máy ở Bạch Mã Sơn vùng Cảnh Cốc (tỉnh Tứ Xuyên), lại cho xây dựng ở Tà Cốc kho lương lớn chưa từng thấy, để hoàn chỉnh chuẩn bị bắc phạt. Liền hai năm, đại bộ phận thời gian của Gia Cát Lượng vẫn ở Hán Trung để luyện binh giảng võ, khuyên quân cầy cấy.

Năm 234, sau mấy năm chuẩn bị, Gia Cát Lượng tiếp tục mang 10 vạn quân đánh Ngụy lần thứ năm. Lần này quân Thục đi theo đường Tà Cốc đến huyện My, cắm trại tại đồng bằng Ngũ Trượng phía nam sông Vị Thủy. Ngũ Trượng ngày nay thuộc huyện Kỳ Sơn tỉnh Thiểm Tây, là một vùng gò đồi thấp, chất đất phì nhiêu thích hợp trồng trọt lương thực. Gia Cát Lượng lựa chọn vùng đất này là nhằm có thể trồng cấy lương thực tại chỗ, dự liệu cho việc tác chiến trường kỳ.

Tuy quân Tào Ngụy chiếm ưu thế về quân số, song sau mấy lần bị quân Thục Hán đánh bại ở chiến trường, tướng Trương Cáp tử trận, nên Tư Mã Ý cho rằng tiến hành giao chiến lớn thì sẽ bất lợi. Tư Mã Ý biết quân Thục gặp khó khăn về tiếp tế lương thảo, nên vẫn sử dụng chiến thuật cố thủ không ra đánh. Gia Cát Lượng sai quân sĩ đến dưới chân thành mắng nhiếc nhằm chọc tức Tư Mã Ý, nhưng quân Ngụy giả vờ như không nghe thấy, tiếp tục án binh bất động dù nhiều lần bị khiêu chiến.

Gia Cát Lượng gửi vào trong thành một bộ áo quần phụ nữ kèm theo một bức thư với nội dung: "Trọng Đạt chui rúc trong thành không giám ra nghênh chiến, thì có khác chi đàn bà, nếu muốn xưng danh là người quân tử và còn biết liêm sĩ, thì hãy ra ngoài thành đọ tài cao thấp, nếu không thì hãy mặc bộ quần áo này vào". Các tướng Ngụy tức điên. Để dỗ dành các tướng lĩnh, Tư Mã Ý vờ xin Tào Duệ cho phép tấn công quân Thục. Tào Duệ biết ý, phái người tới chỗ Tư Mã Ý thuyết phục tướng sĩ bình tĩnh.

Gia Cát Lượng cho lính làm ruộng để có lương thực đánh trường kỳ, một mặt vẫn liên tục khiêu khích quân Ngụy nhưng Tư Mã Ý tiếp tục án binh bất động. Quân Ngụy kiên quyết cố thủ không đánh đã đưa Gia Cát Lượng vào thế giằng co không thể tiến triển được.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa thêu dệt nên sự kiện Gia Cát Lượng dùng kế lừa Tư Mã Ý và hai con trai vào Thượng Phương Cốc rồi cho quân ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu phóng hỏa. Trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng ôm hai con khóc lóc thì trời bỗng đổ mưa lớn, dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi hang.

Gia Cát Lượng lo lắng vì quân Ngụy không chịu xuất trận, lại làm việc rất vất vả, dậy sớm thức khuya, việc xử án phạt 20 gậy trở lên đều tự mình xét hỏi cẩn thận nên sức khỏe mỗi ngày mỗi sút kém.

Qua đời

Tháng 8 năm 234, Gia Cát Lượng sinh bệnh nặng. Vua Thục Hán là Lưu Thiện phái Thượng thư Lý Phúc, ngày đêm phóng đến tiền tuyến gò Ngũ Trượng thăm hỏi bệnh tình của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nằm trên giường bệnh dặn dò Lý Phúc: trước mắt sự nghiệp bắc phạt chưa thành công, hy vọng đại thần triều đình vẫn một lòng như cũ, tận tâm phò tá Lưu Thiện, kế tục hoàn thành sự nghiệp phục hưng nhà Hán mà mình chưa hoàn thành được. Lại yêu cầu Lý Phúc chuyển lời cho nhà vua rằng: sau khi ông ta mất không cần đưa về Thành Đô chôn cất, cứ an táng ở núi Định Quân tại tiền tuyến là được, để tượng trưng chí hướng "da ngựa bọc thây chết ở sa trường". Lý Phúc thảy đều ghi nhớ lời di chúc của Gia Cát Lượng, liền mau chóng trở về Thành Đô báo cáo lại với Lưu Thiện.

Cuối tháng 8 năm Kiến Hưng thứ 12 (tức năm 234), Gia Cát Lượng bệnh mất ngay trong chiến dịch Bắc Phạt lần thứ 6, thọ 54 tuổi; kể từ khi ông ra khỏi lều cỏ Long Trung đã trải qua 27 năm, ở chức vụ Thừa tướng Thục Hán được 14 năm. Cuốn "Tấn Dương thu" của Tôn Thịnh đời Đông Tấn có chép: "Truyền thuyết kể rằng vào hôm Gia Cát Khổng Minh từ trần, ở trên khoảng trời phía bắc, có một ngôi sao đỏ rất lớn, từ phía đông bắc theo hướng tây nam chợt loé sáng rồi tắt đi..."[42]

Khi đại tướng Ngụy là Tư Mã Ý được tin Gia Cát Lượng đã chết, liền hạ lệnh cho quân Ngụy tấn công. Tuy nhiên Dương Nghi đã làm theo mưu kế của Gia Cát Lượng là quay cờ về phía sau, dóng chuông đánh trống đàng hoàng tiến quân, làm cho Tư Mã Ý với bản tính đa nghi tưởng rằng Gia Cát Lượng vấn chưa chết. Tư Mã Ý sợ rằng Gia Cát Lượng chỉ giả chết để lừa mình, ngay lập tức vội vàng cho quân quay về doanh trại cố thủ. Việc Tư Mã Ý phải bỏ chạy trước một Gia Cát Lượng đã chết khiến người dân truyền tụng câu truyện cười: "Gia Cát chết vẫn dọa được Trọng Đạt sống" (死諸葛嚇走活仲達). Khi Tư Mã Ý biết việc này, ông cười và nói: "Ta có thể chiến đấu với người sống, chứ không phải người chết."[43] Nhờ kế này của Gia Cát Lượng, quân Thục mới an toàn rút về Hán Trung.

Trong Tam quốc chí bình thoại có ghi lại giai thoại dân gian kể rằng Tư Mã cũng từng nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: “Lai bất khả đương, công bất khả thủ, khốn bất khả vi, vị tri thị nhân dã, thần dã, tiên dã?”, nghĩa là: Gia Cát Lượng đã đến thì không ai có thể địch nổi, đã tấn công thì không ai có thể phòng thủ, khó khăn cũng chẳng thể vây hãm, ông ấy không phải là người, mà là thần, là tiên.

Nguyên nhân Bắc phạt thất bại

5 lần Gia Cát Lượng bắc phạt, tuy đánh thắng một số trận, giành thêm được dân tại 4 quận phía Tây, nhưng nhìn chung là không đạt mục tiêu đề ra.[44] Theo Dịch Trung Thiên, có 3 nguyên nhân dẫn đến việc Bắc phạt thất bại của Thục Hán và Gia Cát Lượng:[45]

  • Thứ nhất: Tào Ngụy lớn mạnh, nên không dễ sụp đổ nhanh chóng.[45] Ngụy Diên từng đề xuất chia quân 2 hướng, hội sư ở Đồng Quan giống như năm xưa Hàn Tín giúp Lưu Bang lấy thiên hạ, nhưng Gia Cát Lượng không nghe vì phương án này có rủi ro lớn, trong khi "Ngụy chủ minh lược, còn có Tư Mã Ý không thể xem nhẹ"[46] Quân số và diện tích Tào Ngụy lớn hơn gấp 4 lần so với Thục Hán là một bất lợi rất lớn đối với Gia Cát Lượng[47]
  • Thứ hai: vùng Ích Châu không phải là nơi dễ tiến công vào Trung Nguyên. Đường vào Thục khó đi, địa hình hiểm trở, ngăn người cũng là ngăn mình, phòng thủ thì dễ còn xông ra giành thiên hạ thì khó. Quân Thục Hán xuất chinh lần nào cũng bị thiếu lương do việc vận chuyển khó khăn[45]
  • Thứ ba: Gia Cát Lượng vốn giỏi trị quân hơn là dùng quân, lo việc dân giỏi hơn là lo việc tướng, ông là người thận trọng, không muốn mạo hiểm nên tướng lược ứng biến không phải sở trường của ông.[45]

Dịch Trung Thiên cho rằng bản thân Gia Cát Lượng có lẽ cũng nhận ra các điểm này, nhưng vẫn "lấy công để thủ", "quấy bên ngoài để giữ yên bên trong", bởi Thục Hán đất hẹp ít dân hơn Tào Ngụy, nếu ngồi yên thì chẳng khác nào đợi diệt vong, còn nếu tấn công thì ít ra vẫn có cơ hội thắng. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng đã chỉ rõ rằng trong Tam quốc thì nước Thục Hán có tiềm lực lãnh thổ, dân số ít nhất, do đó không thể thỏa mãn với cục diện yên ổn tạm thời mà phải cố tiến công giành thêm lãnh thổ. Vương Phu Chi cho rằng quyết tâm Bắc phạt chính là sự nhìn xa trông rộng của Gia Cát Lượng.

Truy tặng

Hậu chủ Lưu Thiện nghe tin Gia Cát Lượng đã mất, đau đớn khóc lóc không thôi, lại xuống chiếu truy tặng ấn thụ Vũ Hương hầu, cùng dựa vào phẩm đức và công tích của Gia Cát Lượng lúc sống, đặt tên Thụy là Trung Vũ hầu (忠武侯).

Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung theo đúng di nguyện. Mộ phần tựa vào núi, chỉ đủ chứa quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn theo tài sản gì. Chiếu thư do vua Thục Hán ban tặng viết rằng:

Chỉ ngài văn võ kiêm toàn, sáng suốt thành thực, chịu mệnh thác cô, đem thân phò trẫm, hưng dòng đã tuyệt, chí mưu dẹp loạn; sửa việc binh cơ, chinh chiến liền năm, thần vũ hiển hách, uy trấn tám phương, lập công lớn vào thời cuối Hán, công lao sánh tựa Y Doãn - Chu Công. Sao chẳng xót thương, việc lớn chưa thành, gặp bệnh mà thác! Lòng trẫm đớn đau, tim gan tan nát. Trọng người đức lớn công đầu, tên hiệu khắc sâu, danh còn sáng mãi về sau, tiếng thơm bất hủ. Nay sai sứ là Tả trung lang tướng Đỗ Quỳnh cầm cờ tiết, truy tặng ngài ấn thụ Thừa tướng Võ Hương Hầu, thuỵ hiệu Trung Vũ Hầu. Hồn thiêng có linh, xin về thượng hưởng. Than ôi thương thay! Than ôi thương thay!

Người kế nghiệp

Ngay sau khi Gia Cát Lượng chết, mâu thuẫn tranh chấp binh quyền xảy ra giữa đại tướng Ngụy Diên và thân tín của Lượng là Dương Nghi. Tam quốc chí có chép: "Gia Cát Lượng rất tiếc tài cán của Dương Nghi, cũng rất xem trọng sự dũng mãnh của Ngụy Diên, thường hận hai người bất bình với nhau, không nỡ bỏ một người". Trước lúc lâm chung, Gia Cát Lượng yêu cầu Khương Duy, Phí Vỹ giúp đỡ Dương Nghi chỉ huy việc rút quân. Ngụy Diên muốn tiếp tục ở lại chiến đấu nên không tuân lệnh Dương Nghi, hạ lệnh cho quân đoàn của mình sớm rút về phía nam Tà Cốc, không muốn làm việc chặn hậu cho toàn quân. Dương Nghi cáo buộc Ngụy Diên âm mưu tạo phản. Các quan văn như Tưởng Uyển, Phí Y, đều ủng hộ Dương Nghi.

Ngụy Diên vốn không có ý phản, chỉ muốn giết Dương Nghi nên dàn quân ngăn cản đường về của đoàn quân Thục Hán. Dương Nghi hạ lệnh cho Vương Bình đang chỉ huy hậu quân đến đánh Ngụy Diên. Vương Bình chọn sách lược "tiên lễ hậu binh", phân người ước hẹn với Ngụy Diên đối trận ở cửa Nam Cốc, đầu tiên chỉ tiến hành đàm phán. Ông ta nói với Ngụy Diên và quân lính rằng: "Thừa tướng vừa mới mất, thi thể còn chưa lạnh, các ông cuối cùng không nghĩ đến ân nghĩa lại muốn tạo phản ư?". Các tướng lĩnh quân Ngụy Diên nghe Vương Bình diễn thuyết, tinh thần lập tức tan rã, đại đa số quân sĩ không đánh mà rút khỏi cửa Nam Cốc. Ngụy Diên sau khi đại bại dẫn vợ con và một số người thân tín chạy trốn vào vùng núi Hán Trung để lánh nạn, Dương Nghi hạ lệnh cho Mã Đại dẫn quân tìm bắt, không lâu đã bắt được Ngụy Diên cùng gia nhân, Dương Nghi hạ lệnh cùng đem đi xử trảm. Nhà Thục mất đi danh tướng cuối cùng.

Tưởng Uyển là người được chọn để kế nhiệm Gia Cát, Dương Nghi bất mãn phỉ báng triều đình, bị bãi chức rồi tự sát trong ngục. Tưởng Uyển nắm quyền, duy trì các chính sách đối nội của Gia Cát Lượng, nhưng bãi bỏ chính sách phát động chiến tranh chống lại nhà Tào Ngụy, và rút hầu như toàn độ quân đội đồn trú ở thành trì trọng điểm giáp biên giới với Ngụy là Hán Trung về Phù huyện. Từ thời điểm đó, Thục nhìn chung là ở thế phòng ngự và không còn đe dọa đến Ngụy nữa.

Tưởng Uyển ốm, giao việc cho Phí Y và Đổng Doãn. Sau khi Tưởng Uyển mất, Phí Y kế nhiệm, bắt đầu sai Khương Duy quấy rối biên giới với Tào Ngụy bằng những vụ đột kích mang tính chu kỳ, nhưng chưa bao giờ cho phép Duy thực hiện những cuộc tấn công lớn. Năm 244, khi nhiếp chính của nước Tào Ngụy là Tào Sảng (con Tào Chân) tấn công Hán Trung. Phí Y chỉ huy quân đội chống lại Tào Sảng và đại thắng, quân số Tào Ngụy thiệt hại gần một nửa, dẫn đến sự diệt vong sau này của Tào Sảng.

Phí Y có năng lực, chỉ buổi sáng đã làm hết việc, chiều thường mở tiệc chiêu đãi các quan lại trong triều tại tư gia. Trong một bữa tiệc như vậy, Quách Tuần (郭循), một hàng tướng của Tào Ngụy do Khương Duy đem về, đâm chết Phí Y. Từ đó binh quyền rơi vào tay Khương Duy còn triều chính rơi vào tay hoạn quan Hoàng Hạo.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa miêu tả Khương Duy như là một kỳ tài thiên hạ, được Gia Cát nhận làm học trò và truyền dạy binh pháp, sau khi Gia Cát chết thì thống lĩnh đại quân đánh Ngụy, vai trò của Tưởng Uyển và Phí Y mờ nhạt, hầu hết bị lược bỏ. Trên thực tế mãi đến năm 255 Khương Duy mới được phong Đại tướng quân, và cũng chưa bao giờ nắm được toàn quyền về triều chính như Gia Cát, Tưởng Uyển, Phí Y.

Không còn bị Phí Y kềm chế, Khương Duy khôi phục chính sách Bắc phạt của Gia Cát Lượng. Tổng cộng Duy tiến hành 9 chiến dịch tấn công Tào Ngụy, đa phần thất bại nặng nề. Các tướng Ngụy như Quách Hoài, Đặng Ngải, Trần Thái thành công trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công của quân Thục. Nước Thục Hán vốn nhỏ hơn Ngụy, vì Khương Duy tấn công không thành nên hao tổn nhân lực và tài nguyên nghiêm trọng, triều chính thì bị hoạn quan thao túng, tham nhũng tràn lan, nhà Thục Hán bắt đầu suy tàn.

Một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất của Khương Duy là việc phá bỏ hệ thống trại phòng thủ ở Hán Trung do Gia Cát Lượng theo Kinh Dịch lập nên. Ba mươi năm sau khi Gia Cát Lượng mất, năm 264 SCN, quân Ngụy do Đặng NgảiChung Hội thống lĩnh tấn công nước Thục Hán, Hán Trung nhanh chóng thất thủ. Con và cháu nội của Gia Cát Lượng là Gia Cát ChiêmGia Cát Thượng đều tử trận khi chiến đấu bảo vệ kinh đô. Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy. Khương Duy bày kế kích động tướng Ngụy là Chung Hội làm phản để tái lập Thục Hán nhưng thất bại, Khương Duy bị giết và nước Thục diệt vong.

Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa hư cấu ra chuyện khi Đặng Ngải vào Thục, đi qua mộ Gia Cát Lượng thì Lượng hiện hồn về báo mộng, khuyên ông đừng cướp bóc, giết hại người dân.

Quan hệ với Lưu Bị, Lưu Thiện

Trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, mối quan hệ giữa nhân vật Gia Cát Lượng và nhân vật Lưu Bị được ví như "cá với nước", Lượng nói gì Bị nghe nấy. Còn đối với Lưu Thiện thì nhân vật Gia Cát Lượng "hết lòng phò tá", được xem như cha nuôi... Trên thực tế thì Lưu Bị với Gia Cát Lượng đúng là "kính trọng như khách", Lưu Thiện thì ca ngợi "họ Gia Cát đã cứu quả nhân", nhưng mối quan hệ quân thần giữa họ cũng có những vấn đề phức tạp.

Với Lưu Bị

Theo Dịch Trung Thiên, sau giai đoạn gắn bó ban đầu, giữa Gia Cát Lượng và Lưu Bị sau trận Xích Bích lại xa cách hơn, mối quan hệ "có chút khó hiểu":

  • Lưu Bị vào đánh Tây Xuyên (Ích Châu) không đem theo Lượng mà đem theo Bàng Thống, Thống thỏa sức tung hoành, bày mưu vạch kế. Bàng Thống chết rồi, Lưu Bị "thương nhớ đến rơi lệ". Khi đánh Đông Xuyên (Hán Trung) Bị lại đem theo Pháp Chính, Chính cùng Lưu Bị vào sinh ra tử, đề xuất chủ trương. Pháp Chính mất, Lưu Bị "nước mắt giàn giụa". Suốt giai đoạn này, Gia Cát Lượng chỉ "lo việc thuế má", "lo lương cho quân ăn"... đây có thể chỉ là do ông vốn giỏi trị quốc, lo việc hậu cần hơn là thao lược đánh trận, nên thường được để lại phía sau.[48]
  • Lưu Bị nghe lời Pháp Chính hơn là nghe lời Gia Cát Lượng, Lưu Bị với Gia Cát Lượng "kính trọng như khách", còn với Pháp Chính thì "nghe lời theo kế". Chính Gia Cát Lượng cũng từng thừa nhận điều này khi nói: “nếu Pháp Hiếu Trực còn thì có thể ngăn được chúa thượng”. Dịch Trung Thiên cho rằng về sau giữa hai người đã nảy sinh sự khác biệt về tư tưởng chiến lược, Lưu Bị vì muốn đánh Ngô trả thù cho Quan Vũ, Trương Phi mà xóa bỏ chủ trương "hòa Ngô đánh Ngụy" của Gia Cát Lượng[49]
  • Lưu Bị không hoàn toàn tín nhiệm Gia Cát Lượng, sau khi lên ngôi Hoàng Đế phong Gia Cát làm Thừa tướng, nhưng không cho "khai phủ" (nghĩa là chỉ có chức vụ, không có trụ sở, không có phủ đệ, không có thuộc cấp), tức là không thể lấn quyền nhà vua như Tào Tháo đã làm.[49]
  • Lưu Bị "gửi con" cho Gia Cát Lượng do "không còn cách nào khác" (con còn quá nhỏ) và không còn ai khác đủ tin cậy để gửi.[50] Trong việc gửi con, Lưu Bị có thực tâm tin tưởng Gia Cát Lượng hay không thì không thể xác định rõ vì lời trăn trối của Lưu Bị quá vắn tắt, có thể hiểu theo nhiều cách khách nhau tùy theo quan điểm của mỗi nhà sử học (xem phân tích bên trên).

Sau này, Gia Cát Lượng không dùng một số người mà Lưu Bị tin cậy; lại sử dụng người Lưu Bị từng cảnh báo là không nên dùng:

  • Lý Nghiêm: trước khi chết Lưu Bị sắp xếp, đề bạt Lý Nghiêm làm phó, cùng Gia Cát Lượng nắm triều chính (tựa như Trương ChiêuChu Du phò Tôn Quyền). Giữa Lượng và Nghiêm đã có xung đột. Theo Tam quốc chí - Lý Nghiêm truyện và Hoa Dương quốc chí, Lý Nghiêm tham quyền, từng đề xuất thành lập Ba châu (tự mình là thứ sử), kết quả “thừa tướng Gia Cát Lượng không theo”. Mấy năm sau, Lý Nghiêm lại xin được "khai phủ", lý do là 4 vị nhận di chiếu của Tào Phi phò tá Tào Duệ đều được khai phủ, nhưng yêu cầu này cũng bị Gia Cát từ chối vì cho rằng Lý nghiêm muốn lấn quyền trung ương. 8 năm sau, Gia Cát Lượng cách chức Lý Nghiêm với chứng cớ rõ ràng là Lý Nghiêm chậm trễ cung cấp quân lương lại trình báo gian dối, nhưng Dịch Trung Thiên cho rằng còn có những lý do khác không rõ ràng[51]
  • Ngụy Diên: Ngụy Diên là người rất được Lưu Bị tin tưởng, tín nhiệm. Sử ghi rằng "mỗi lần Tiên chủ xuất binh, văn có Pháp Chính, võ có Ngụy Diên".[52] Sau khi chiếm được Hán Trung, ai cũng nghĩ Bị sẽ cho Trương Phi trấn thủ nơi này, nhưng ông lại chọn Ngụy Diên. Sau này Gia Cát Lượng nắm quyền, Ngụy Diên luôn bị kềm chế, mỗi lần hiến kế đều bị gạt đi. Tam quốc chí - Mã Lương truyện viết: lúc xuất binh, ai cũng thấy Ngụy Diên xứng đáng là tiên phong, nhưng Gia Cát Lượng lại sử dụng Mã Tốc (sinh thời Lưu Bị chê Mã Tốc), kết quả Mã Tốc bại trận.[53]

Với Lưu Thiện

Sau khi Lưu Bị chết, Gia Cát Lượng mới được "khai phủ" thừa tướng, ngoài ra còn kiêm luôn Ích Châu mục. Nước Thục Hán và Ích Châu gần như là một (Thục Hán chỉ có vỏn vẹn châu Ích và Hán Trung), việc Gia Cát Lượng vừa là Thừa tướng Thục Hán (trực tiếp quản lý quan lại) vừa là Ích Châu mục (trực tiếp quản lý dân chúng) cho thấy ông nắm trọn quyền hành (vừa trực tiếp quản "quan" lẫn "dân"). Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện ghi: “chính sự dù to nhỏ, do Lượng giải quyết tất”, Hậu chủ truyện ghi Lưu Thiện nói: “chính, do họ Cát; tế, do quả nhân” (nghĩa là mọi việc quan trọng do gia Cát Lượng xử lý, còn Lưu Thiện chỉ là vua trên danh nghĩa).[54]

Lưu Bị vốn "gửi con" để Gia Cát Lượng phò tá, giúp đỡ Lưu Thiện. Gia Cát Lượng hết lòng tận tụy vì việc nước, tự mình xử lý mọi việc, chưa bao giờ trao lại quyền điều hành cho Lưu Thiện. Thục Hán không đặt chức quan ghi sử, khiến người sau không biết chuyện gì xảy ra trong triều.[54] Gia Cát Lượng kèm cặp, dạy bảo Lưu Thiện rất nghiêm, lên ngôi năm 17 tuổi đến khi 29 tuổi Lưu Thiện mới ra khỏi cung lần đầu. Tam quốc chí - Hậu chủ truyện ghi: năm 236 Hậu chủ mới đi xem đập Đô Giang; Tư trị thông giám có ghi chú: không còn Gia Cát Lượng nên Lưu Thiện mới ra ngoài du ngoạn. Trong Xuất sư biểu, Gia Cát Lượng cũng dùng lời lẽ dạy bảo Lưu Thiện, mong ông noi gương tiên đế, hành xử đúng đạo lý[54] Bùi Tùng Chi cho rằng Gia Cát Lượng không trao quyền điều hành cho Lưu Thiện vì biết Lưu Thiện chưa quen chấp chính, còn Dịch Trung Thiên thì cho rằng có 3 nguyên nhân:

  • Thứ nhất, việc nhà vua vừa tự nắm quyền vừa tự thân chính là không hay vì khi có chuyện sẽ không có ai cáng đáng cùng vua.
  • Thứ hai, Gia Cát Lượng là người rất có trách nhiệm, sợ giao việc cho một người non nớt như Lưu Thiện thì sẽ làm hỏng việc nước.
  • Thứ ba, nước Thục Hán có nhiều khó khăn, bên ngoài lại có nguy cơ lớn bị Tào Ngụy và Đông Ngô tấn công, nên chỉ có Gia Cát Lượng mới có thể xử lý tốt.

Sau khi Gia Cát Lượng chết, Lưu Thiện bãi bỏ chức vụ Thừa tướng, lấy lại thực quyền cho mình. Theo ghi chú của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí - Gia Cát Lượng truyện (dẫn Tương Dương ký), khắp nơi người người ở Thục đều yêu cầu lập miếu thờ thừa tướng, nhưng không được Lưu Thiện phê chuẩn, người dân phải "tự cúng tế riêng" khắp mọi nơi. Có người nói để "cúng ngoài đường", "tế ngoài đồng" không hợp lẽ, có thể lập miếu ở Thành Đô, nhưng “Hậu chủ vẫn không theo” vì như vậy là "bức tông miếu, khiến bụng thánh sinh nghi". Dư luận xôn xao, bất bình. Cuối cùng có quan dâng sớ đưa ra phương án "có thể chấp nhận được" với Lưu Thiện: cho lập miếu gần mộ (ở núi Định Quân), ra quy định chỉ được lập miếu cúng tế trước mộ (trên núi xa xôi ít người tới). Dịch Trung Thiên cho rằng điều này chứng tỏ Lưu Thiện không ưa Gia Cát Lượng, nguyên nhân là do Lưu Thiện luôn bị Gia Cát Lượng dạy bảo, kèm cặp quá sát sao nên cảm thấy không vui trong lòng[54]